Nâng cơ hội xuất khẩu nông sản, thực phẩm chế biến Việt Nam vào các hệ thống phân phối quốc tế

Ngày 07/06/2024, Vụ Thị trường châu Âu –châu Mỹ, Bộ Công Thương, chủ trì và phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Hội thảo quốc tế với chủ đề “Xu hướng thị trường và cơ hội xuất khẩu nông sản, thực phẩm chế biến Việt Nam vào các hệ thống phân phối quốc tế”.

quy mô lớn của nước ngoài. 

Các FTA tạo lợi thế cạnh tranh cho nông lâm thủy sản

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng cho rằng, mặc dù nền kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, thách thức trong năm 2023 làm tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng âm, tuy nhiên xuất khẩu các sản phẩm của ngành nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng ấn tượng, là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu, đóng góp tích cực vào thặng dư thương mại. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 53 tỷ USD, trong đó nhiều mặt hàng nông sản tăng cả về giá trị và lượng như gạo, rau quả, cà phê, hạt điều.

Bước sang năm 2024, đà tăng trưởng được duy trì ổn định: kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 5 tháng đầu năm 2024 ước đạt 24,14 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2023. Xuất khẩu sang các thị trường chính đều có kim ngạch tăng trưởng dương như sang Hoa Kỳ (tăng 23,9%), Trung Quốc (tăng 8,6%), Nhật Bản (tăng 6,6%) và cùng với đó giá trị xuất khẩu các mặt hàng trong ngành nông nghiệp cũng đạt tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm ngoái như: cà phê đạt 2,9 tỷ USD (tăng 44,1%), gạo đạt 2,65 tỷ USD (tăng 38,2%), rau quả đạt 2,59 tỷ (tăng 28,1%), tôm đạt 1,3 tỷ USD (tăng 7,5%)…

Với những ưu thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng thuận lợi cùng ưu đãi từ 16 FTA song phương và khu vực đã ký kết và đang thực thi với nhiều đối tác trên thế giới mà đặc biệt là CPTPP, EVFTA, liên tiếp trong những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu nông sản và thực phẩm duy trì tốc độ tăng trưởng trên hai con số. Các FTAs đã tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các mặt hàng nông lâm thủy sản chiến lược và có thế mạnh nhờ cam kết cắt giảm thuế quan, đặc biệt đối với các sản phẩm chế biến; đồng thời tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao vào khu vực nông nghiệp, tham gia sâu, bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu”- Thứ trưởng Phan Thị Thắng đánh giá.

Thực tế, cùng đồng hành với những nỗ lực của các doanh nghiệp, trong những năm vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cùng các Bộ ngành đã phê duyệt, triển khai nhiều chính sách, đề án quan trọng và cấp thiết để thúc đẩy sản xuất, chế biến, và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Những đề án này đã mang lại những hiệu quả thiết thực, góp phần phát triển, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong dài hạn; khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạnh mẽ vào chuỗi sản xuất, cung ứng, phân phối hàng hóa toàn cầu, xuất khẩu trực tiếp vào các mạng phân phối nước ngoài trên cơ sở phát huy thế mạnh và khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Đồng quan điểm, ông Lê Thanh Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - thông tin thêm: Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng để phát triển sản xuất cả nông, lâm và thuỷ sản. Sản lượng nông sản, thực phẩm sản xuất hàng năm không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu như năm 1990, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản Việt Nam chỉ khoảng 20 triệu USD, đến nay đã vượt mốc 53 tỷ USD/năm.

Hiện nay, Việt Nam là nhà cung ứng đứng thứ nhất thế giới về hạt điều, hạt tiêu; thứ hai thế giới về cà phê và lớn thứ ba về gạo. Thuỷ sản Việt Nam cũng có bước tiến vượt bậc khi vượt qua các tiêu chuẩn chất lượng cao nhất để tham gia chuỗi cúng ứng tại thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc; phát triển nhiều sản phẩm chế biến sâu có giá trị gia tăng cao. 

Tăng cường xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường cho các loại nông sản

Mặc dù ngành nông nghiệp của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, trên thực tế chủ yếu Việt Nam vẫn xuất hàng thô, hàm lượng chế biến thấp, chiếm khoảng 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu, nên giá trị và mức độ cạnh tranh không cao; và đây rõ ràng không phải là hướng đi bền vững và hiệu quả. Ngoài ra, hàng nông sản, thực phẩm xuất khẩu vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức từ việc tiêu chuẩn chất lượng hay các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa của các thị trường nhập khẩu ngày càng cao; chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng tại nhiều thị trường; hay xu hướng phát triển bền vững, giảm phát thải carbon và bảo vệ môi trường tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng thích ứng và tuân thủ.

Do đó, theo Thứ trưởng Phan Thị Thắng, Việt Nam cần tiếp tục triển khai các chính sách hiện hành đang hỗ trợ cho ngành nông nghiệp chuyển từ xuất khẩu thô sang gia tăng tỷ lệ xuất khẩu tinh, tạo điều kiện doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp, thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa ngành hàng và chuyển từ phát triển chuỗi cung ứng nông sản sang phát triển chuỗi giá trị ngành hàng, bắt nhịp xu hướng tiêu dùng của thị trường toàn cầu. 

Đặc biệt, thời gian tới, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tăng cường phối hợp thực hiện công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, đàm phán mở cửa thị trường cho các loại nông sản của Việt Nam.

Là 1 trong những thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản quan trọng của Việt Nam, ông Trần Ngọc Quân, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Bỉ và EU cho biết, mỗi năm EU nhập khẩu hơn 160 tỷ USD các mặt hàng nông sản nhưng nông sản từ Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 4% trong số đó. Điều này cho thấy, dư địa để tăng thị phần cho nông sản Việt Nam tại đây là rất lớn. Tuy nhiên, EU là một thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm soát dư lượng và cập nhật thường xuyên các quy định nhập khẩu.

"Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, thực phẩm vào EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải thường xuyên cập nhật thông tin thị trường, gia tăng khả năng đáp ứng các tiêu sản xuất – vận chuyển – tiêu dùng bền vững. Việc quản lý chất lượng sản phẩm không chỉ nằm ở khâu sản xuất mà còn là vấn đề từ nguyên liệu, vận chuyển, bảo quản… Do đó, muốn tránh các rủi ro về chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng được chuỗi cung ứng có liên kết, kiểm soát chặt chẽ”, ông Trần Ngọc Quân khuyến nghị.

Tại khuôn khổ sự kiện, Thương vụ Việt Nam tại Bỉ và EU đã công bố cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp nhập khẩu nông sản, thực phẩm, đồ uống của EU. Dữ liệu được chia thành 27 trường thông tin, tương ứng với 27 nước thành viên EU. Mỗi tệp dữ liệu có từ 12 đến 15 ngành hàng gồm: chè-cà phê, sản phẩm sữa, đông lạnh, hải sản, thịt, các loại mỳ, rau quả, đồ uống, ngũ cốc, đường – mật ong, gia vị, đồ organic, thực phẩm chế biến đông lạnh, dinh dưỡng thể thao. Tùy vào số lượng các nhà nhập khẩu liên quan, mỗi ngành hàng có khoảng gần 100 doanh nghiệp bản địa. Tổng cơ sở dữ liệu khoảng 10.000 doanh nghiệp nhập khẩu uy tín trong lĩnh vực nông sản, thực phẩm và đồ uống.

Cũng tại hội thảo, nhiều chuyên gia, diễn giả kinh nghiệm, có chuyên môn cao và góc nhìn đa dạng từ Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Thương mại châu Á – Hoa Kỳ, các Tham tán Thương mại Việt Nam, đại diện một số tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài như Central Retail, Lulu, các công ty tu vấn, và một số doanh nghiệp trong ngành hàng nông sản và thực phẩm tham dự Hội thảo.

Qua đó, các chuyên gia, diễn giả, các doanh nghiệp đã chia sẻ góc nhìn đa chiều, bao trùm các lĩnh vực nổi bật từ nhu cầu, thị hiếu, cơ hội đến tiêu chuẩn, quy định, và thách thức tại các thị trường, các vấn đề được doanh nghiệp đặc biệt quan tâm khi tham gia vào chuỗi cung ứng quốc tế.

Báo Công Thương

Link nội dung: https://tintuc.chonggiavietnam.com/nang-co-hoi-xuat-khau-nong-san-thuc-pham-che-bien-viet-nam-vao-cac-he-thong-phan-phoi-quoc-te-415.html